Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009

HƯƠNG GIANG PHÚ

Hai nhánh theo về,
Hợp lại thành sông;
Hương là tên gọi,
Lờ lững xuôi dòng.
Uốn éo rừng cây rậm rạp, xanh lơ một dãi lụa màu;
Quanh co đồi núi chập chùng, ngào ngạt hai bờ hoa mộng.
Sông đặt là Hương,
Mới nghe đã tưởng,
Bọn thi sĩ si tình,
Lũ nhà văn ứng hưởng.
Lênh đênh theo nước, thuyền ngư ông đủng đỉnh buông câu;
Văng vẳng bên tai, giọng đò đưa ngân nga ca xướng.
Thuyền lan nhè nhẹ, mái chèo khua lóng lánh hạt minh châu;
Sóng gợn lăn tăn, gió mai hẩy mơn man hoa cẩm chướng.
Đẹp làm sao, cảnh trông như mộng!
Thích quá chừng, lòng nhẹ tựa hương!
Lúc này đây:
Trời trong nắng rọi,
Sông ánh màu xanh.
Đôi bờ cỏ hoa chen lối, tím vàng xanh trắng cùng phô;
Mấy chỗ thuyền bạn lưới phơi, cao thấp ngắn dài nhấp nhánh.
Những tưởng trời liền nước,
Đâu biết nước ngang thành!
Sông vẫn trôi êm, sóng gợn cá xao động nước;
Trời còn sáng đẹp, mây trôi chim lượn thêu mành.
Xa xa ấy Kim Phụng, Thiên Thai, uốn lượn như rồng bay núi thẳm;
Sát sát là Ngự Bình, Ngọc Trản, im lìm tựa lân ngủ ngàn xanh.
Thế cho nên:
Được buổi rong chơi,
Ngồi nhìn nước biếc;
Lòng nhẹ lâng lâng,
Quên đời mỏi mệt.
Nước tựa gương soi, một vùng phẳng lì ánh chiếu, vàng gieo bóng nước, lung linh vạn ánh hào quang;
Cảnh như tranh vẽ, hai bờ êm ả màu cây, nắng chiếu sương mai, lóng lánh muôn hòn ngọc biếc.
Vi vu lau đùa gió,
Lanh lảnh sáo gọi mây;
Lanh canh thuyền gõ mái,
Thấp thoáng lưới chài bay.
Kia Kim Long, Bạch Hổ, Cồn Dã viên, Tháp chứa nước dõi mắt nhìn sông nước chảy về xuôi;
Nọ Hoàng Thành, Đại Nội, Phu Văn lâu, Đỉnh Cột cờ đưa tay vói đám mây bay xuống bãi.
Thuyền câu một lá, thong dong xuôi dòng tìm bến, lão ngư ông châm thuốc phì phà;
Mây trắng đôi hàng, hấp tấp theo gió về non, đàn chim vạc gọi đàn ngắc ngoải.
Tháp Thiên Mụ sen vàng soi bóng nước;
Đồi Thọ Cương mây trắng sáng hình cây.
Nam bình Nam ai,
Mái nhì Mái đẩy;
Dìu dặt xa đưa,
Cô chài buông lái.
Cẩu Trường Tiền lạnh lùng ôm lấy hận, một nhịp ngậm ngùi;
Chợ Đông Ba bỡ ngỡ đứng trông buồn, hai tầng ái ngại.
Chạnh nghĩ:
Sông Mịch La thuở nọ, chàng Khuất Nguyên nhớ nước đau lòng, khúc Ly Tao thiết tha ai oán;
Dòng Hương Giang ngày ấy, bác Sào Nam thương nhà sốt ruột, thư Huyết Lệ
ngào nghẹn tái tê.
Đặng Dung mài gươm dưới nguyệt, tính kế an dân, việc không thành, bể thảm gieo mình, đất Thuận Hoá muôn đời thương tiếc;
Duy Tân câu cá bên hồ, bàn mưu cứu nước, sự chẳng xong, xứ lạ lưu đày, dòng Hương Giang vạn thuở ủ ê.
Hỏi đâu nước cũ?
Thục đế tìm về...
Năm canh gọi mãi
Não nuột tái tê...
Nghĩ cuộc đời bể khổ, giương mắt nhìn mà căm giận trời xanh;
Thương vận nước mây che, cúi đầu nghĩ thêm oán hờn nhân thế.
Định bắt chước Lưu Nguyễn, ngược dòng Hương, tìm động Thiên Thai, lại e bạn mỉa;
Muốn học thói Đào Tiềm, về thôn ổ, vui cảnh ruộng, còn sợ người chê.
Thẩn thơ dạo bước,
Ngơ ngẩn hướng đông;
Biết ai bày tỏ,
Khuây khoả nỗi lòng.
Việc trước mắt, phủi tay trôi dòng biếc, dạ những băn khoăn khắc khoải;
Chuyện tương lai, bó gối dõi mây bay, lòng còn lóng đóng mơ mòng.
Người xưa đâu tá? Giận mình sinh nhầm thế kỷ!
Tri kỷ ai đây? Thương thân sống kiếp long đong!
Kìa nghe bên sông,
Ngư ông gõ mái,
Cất tiếng ca vang,
Ca rằng:
Sông Hương hề về đông,
Lòng ta nay hề ai biết cùng,
Một mình hề trên sông,
Thả lưới buông câu hề sống đời thong dong,
Mặc ai đua tranh hề ta vững lòng,
Thuyền ta lênh đênh hề cùng trời đất mênh mông.

Huế, 1990






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét